Tam Luân

Chương 58: Kẻ điên



Nửa buổi sáng, Đằng Nguyên lội ngược dòng suối bóc rêu đá không độc về ăn. Trong rừng, cỏ cây đang lún phún đâm chồi nảy lộc, dù muốn ăn cũng chẳng thể hái vì nếu hái cụt ngọn đi thì chúng sinh trưởng bằng gì. Tà thể nạp nhiều độc, Không Đàm chẳng sử dụng đến cũng không có chỗ tiêu hao, ăn vào lập tức ngán ngẩm, Đằng Nguyên buộc phải tìm các loại rau cỏ không độc để ăn. Bất quá trong rừng làm gì có nhiều rau không độc cho hắn hái. Hắn phải đi bóc rêu đá, rêu dưới khe suối.

Tuyết tan dần, nước suối chảy róc rách nho nhỏ, không còn bị đóng băng nữa. Rêu kịch độc ngập nước lập tức chết sạch không thấy bóng dáng, chỉ còn các loại rêu không độc, Đằng Nguyên lấy thoải mái. Hắn bóc đủ rêu, lên bờ ngồi hong khô chân rồi mới xỏ vào giày cỏ cho khỏi ướt.

Đang thoải mái ngồi hóng gió, tận hưởng không khí trong lành thì Đằng Nguyên trông thấy lác đác ít lá rau trôi theo dòng nước từ thượng nguồn chảy xuống. Ban đầu chỉ có dăm ba lá, sau đó nhiều dần. Chúng trôi xuống chỗ trũng trong lòng suối, bị những viên đá lớn trong lòng suối chặn, mắc lại rất nhiều, không trôi đi được.

Đằng Nguyên nhìn về phía đầu nguồn suối, chớp chớp mắt vài cái liền nghĩ ra đây là lá rau từ trong mỏ Dạ Cổ trôi ra. Nước suối chảy vào mỏ, dọc cả ba khu Hạ, Trung, Thượng, chảy ra khỏi mỏ rồi uốn lượn quanh co vòng vèo chán mới tới được chỗ Đằng Nguyên đang ngồi. Nếu lá cây theo nước chảy xuống thì Đằng Nguyên không để ý vì có thể cây rừng rụng lá xuống suối nhưng đây lại là lá rau, chắc chắn lính trù phòng trong mỏ ra suối rửa rau nên lá nhỏ và nát mới trôi theo dòng tới tận đây.

Hắn xỏ giày cỏ vào, đứng dậy đi men theo bờ suối lên thượng nguồn, nhìn lá rau nát lác đác trôi xuống, gật gù khẳng định phán đoán của mình. Lính trù phòng rửa rau để chuẩn bị nấu bữa trưa. Không biết sau khi hắn bị ném khỏi mỏ, các huynh đệ trong nhà gỗ thế nào.

Lưu Tống và những nô lệ cầm đầu bạo loạn chắc đã bị chặt đầu ngay sau khi bọn lính giải Đằng Nguyên đi. Những người khác không biết có bị đánh đến chết đi sống lại? Liễu Giác Tô bị bắt chưa? Có bị tra tấn sống không bằng chết hay một đao chặt đầu? Đằng Nguyên thắc mắc kinh khủng nhưng không có câu trả lời, thần người nhìn dòng nước róc rách chảy nho nhỏ.

Suối cạn, nước ít, lá rau mắc lại ở những chỗ quanh co. Đằng Nguyên nhìn một lát thì giật mình phát hiện dị trạng. Hắn vội vàng lội xuống suối vơ một nhúm lá lên kiểm tra. Lác đác trong số những lá rau ăn được có cả loại có độc. Chẳng lẽ bọn cai nô trong mỏ lại tiếp tục cho nô lệ ăn canh có độc?

Vì lá độc quá ít, Đằng Nguyên không xác định rõ nên lập tức đi ngược lên đầu nguồn, tới những chỗ mắc nhiều lá độc lẫn vào rau để nhặt nhạnh, kiểm tra… Lội đến hết đoạn suối chảy qua rừng rậm, tới sát bãi đất trống gần khu mỏ thì Đằng Nguyên không thể đi tiếp được nữa. Nếu hắn thò đầu ra, rất có thể sẽ bị lính canh mỏ đứng trên các chòi canh nhìn thấy.

Hắn dừng lại nhìn về phía đầu nguồn, chờ đợi lá tiếp tục trôi xuống.

— QUẢNG CÁO —

Đằng Nguyên chờ hai khắc, vớt vớt, nhặt nhạnh lá độc lẫn trong rau cho đến khi không còn chút lá nào xuôi theo dòng nước mới lên bờ. Trong tay hắn có một nắm nhỏ lá độc các loại. Hắn vội vàng chạy về gần sơn động của mình, tháo giày cỏ ướt quăng sang một bên, bày hết lá độc lên một tảng đá bằng phẳng, kiểm tra từng loại.

Chỉ có bốn loại, độc trung tính. Chúng chính là các lá độc mà lính trù phòng bỏ vào canh của nô lệ, hạ độc tất cả các nô lệ trong mỏ Dạ Cổ để nếu họ có thoát ra ngoài cũng chẳng sống được lâu nếu không có giải dược.



Dạo trước nô lệ chết nhiều, cả ba khu đã ngừng cho độc vào canh, chỉ bỏ thảo dược… Hiện tại tuyết sắp ngừng rơi, trời ấm lên, chắc tình trạng của nô lệ cũng ổn hơn so với hồi tháng mười một nên chúng tiếp tục hạ độc.

Đằng Nguyên nhíu mày khó chịu, lập tức thay giày, chạy vào rừng tìm thảo dược giải loại độc mãn tính này. Hắn đã quên khuấy mất chuyện nô lệ bị đầu độc. Dù hắn có giết hết được cai nô trong mỏ, thành công giải phóng toàn bộ nô lệ thì họ cũng sẽ phải đối diện với tình trạng độc tính trong cơ thể phát tác. Phải tìm được giải dược trước đã rồi mới tính đến những chuyện khác. Ra khỏi mỏ có ích gì đâu nếu như không có giải dược, đang trên đường đào tẩu mà độc phát tác cũng chết dần chết mòn thôi.

Đằng Nguyên lùng sục hai ngày trong rừng thì tìm được hai loại thảo dược giải độc. Trời giúp hắn, việc tìm kiếm rất dễ dàng khiến Đằng Nguyên sửng sốt. Hai loại thảo dược này mọc đầy trong rừng, hiện tại mới nhú lá non nhưng khẳng định chỉ tháng sau trời ấm lên chúng sẽ mọc rậm rạp, rất dễ tìm kiếm. Nếu Đằng Nguyên dẫn nô lệ ra ngoài, việc đầu tiên hắn dạy họ chính là nhận biết, tìm kiếm hai loại thảo dược này, dùng kết hợp với nhau để khống chế, từ từ loại bỏ độc tính.

Vì chúng có quá nhiều nên Đằng Nguyên chẳng thèm hái hay đánh dấu khu vực mọc, kệ chúng ở đó.

Sáng nào hắn cũng ra đoạn suối chảy ra khỏi mỏ Dạ Cổ ngồi chờ đến giờ lính trù phòng rửa rau. Chúng làm việc có giờ giấc cụ thể, Đằng Nguyên rình rập rất dễ dàng. Cứ canh giờ đó chúng sẽ rửa rau để chuẩn bị nấu bữa trưa và cả bữa tối, buổi chiều chúng chẳng rửa cái gì cả. Đằng Nguyên ngồi bảy ngày thì nắm chắc được lính trù phòng đang đầu độc nô lệ với cường độ rất dày. Cứ ba ngày chúng sẽ cho nô lệ ăn canh có độc, năm ngày mới cho ăn canh giải độc một lần; vào ngày thứ năm đó, Đằng Nguyên vớt được chút lá thảo dược lẫn trong rau.

Điều đặc biệt cả lá độc lẫn thảo dược đều là lá tươi, không phải loại sao khô dự trữ. Như vậy chúng phải có sẵn một nơi trồng độc – dược ngay trong mỏ. Lính cai nô trồng rau trong mỏ, Đằng Nguyên có nghe nói nhưng không biết chỗ đó nằm ở khu nào. Hoá ra không chỉ có rau.

Sau khi nắm rõ bốn loại lá độc, Đằng Nguyên bỏ chúng vào nồi đá, đun lên để uống, thấy mùi vị giống y hệt với độc trong canh thì yên tâm hoàn toàn. Hắn ôm căm hận với đám lính cai nô ác độc, càng sục sạo trong rừng để tìm độc, muốn nhanh chóng giết hết chúng. Nô lệ qua một mùa đông rét mướt, điều kiện sống tồi tệ, ăn uống kham khổ đã đủ bào mòn sức khoẻ rồi. Ấy thế mà vừa hết giá rét chúng đã tiếp tục đầu độc, khổ ải liên miên như vậy ai chịu thấu. — QUẢNG CÁO —

Đằng Nguyên ăn không ngon ngủ không yên, ruột gan nóng như lửa đốt, lần mò tìm hết xó nọ góc kia cho đến khi tháng ba tới, tuyết ngừng rơi, cây cối trong rừng đâm chồi nảy lộc. Đối với việc làm ác, ông trời luôn giúp hắn. Một buổi chiều ấm áp giữa tháng ba, Đằng Nguyên nhìn thấy một loại nấm màu trắng mũ xoè ra như cái ô, có đốm vàng nhạt ở viền mũ.

Nấm này mọc quanh gốc một loài cổ thụ tán sum suê che kín ánh mặt trời. Chúng mới lên nhu nhú, lún phún ở những chỗ tối và ẩm ướt. Đằng Nguyên nhếch mép cười, ngồi xuống cấu thử một chút ở mũ nấm, đưa lên chấm vào lưỡi.

Hắn phải lập tức khạc nhổ như điên, mắt sáng rực, tâm tình kích động đến nỗi miệng bật lên thành tiếng:

- Có cách rồi…



Đằng Nguyên lập tức đứng dậy, chạy như điên tới địa phương có nhiều độc thảo để thu thập hai loại cây độc. Loại thứ nhất chỉ lấy rễ, loại thứ hai chỉ lấy lá. Hắn nhổ và hái cực nhiều, mang về gần sơn động phơi khô rồi nghiền thành bột. Nấm độc lên chưa nhiều, cây còn nhỏ, chưa hái được, Đằng Nguyên phải chờ thêm ít hôm.

Trong lúc chờ đợi, hắn tiếp tục ra bờ suối rình xem lá rau và lá cây độc trôi xuống theo dòng nước. Nước suối lúc này chảy róc rách thành dòng lớn hơn tháng trước rất nhiều nhưng vẫn chỉ nằm vỏn vẹn trong một phần ba lòng suối. Thỉnh thoảng nước lại cạn đi, chảy nhỏ ri rỉ.

Đằng Nguyên tính toán lượng độc cần dùng theo đầu cai nô và toàn bộ nô lệ trong mỏ Dạ Cổ, thu đủ rễ và lá độc thì bắt đầu hái nấm. Nấm lên tua tủa khắp nơi, hái cực dễ dàng. Để đề phòng bất trắc, Đằng Nguyên chuẩn bị thừa so với lượng độc đã tính.

Hắn hái nấm, rải ra phơi, nghiền nhỏ thành bột, trộn cùng với lá và rễ độc tạo thành một loại bột độc, tự đặt tên nó là Lục Dư. Đằng Nguyên không biết vì sao mình chọn cái tên không liên quan này, chỉ thấy nó bật ra trong tâm trí thì gọi tạm như vậy.

— QUẢNG CÁO —

Độc tính của Lục Dư thuộc dạng trung tính, gây tiêu chảy, nôn mửa, hoa mắt chóng mặt cực nặng cho kẻ trúng độc. Thực tế, độc tính của nấm đốm vàng mà Đằng Nguyên hái cũng gây tiêu chảy, nôn mửa như vậy, nếu ở tình huống bình thường muốn độc chết người, không cần phải trộn thêm với bất cứ loại độc nào khác. Nhưng vì đặc thù của mỏ Dạ Cổ, Đằng Nguyên phải tìm cách làm giảm độc tính của nấm xuống kẻo chúng giết chết hết nô lệ. Vậy nên thay vì dùng toàn bộ nấm độc, hắn trộn thêm rễ và lá độc vào để tạo nên Lục Dư. Độc tính của Lục Dư sẽ bị giảm xuống so với khi chỉ dùng nấm.

Khi Đằng Nguyên chuẩn bị xong độc cũng là cuối tháng ba. Hắn mang theo túi độc bên người, rình rập trước đại môn của mỏ Dạ Cổ, chờ cửa mở để lẻn vào trong.

Tầng thứ hai của Huyết Liên chỉ có tác dụng ẩn thân hoàn toàn khi bất động, di chuyển vẫn sẽ có tàn ảnh loang loáng nên Đằng Nguyên hết sức thận trọng. Hắn nằm phủ phục trong rừng rình rập bốn ngày, bỏ lỡ hai lần lính canh mỏ mở cửa để mang xác nô lệ ra ngoài ném. Đến lần thứ ba hắn mới tìm được cơ hội lẻn vào.

Khi hai tên lính canh mỏ đẩy xe chở xác đi ra, vừa quay lưng lại với hắn thì Đằng Nguyên lao như tên bắn khỏi chỗ nấp đồng thời dồn hết sức khu động Không Đàm. Hai tia hàn khí xoay tít thúc hắc vụ tràn ra, tấm màng lục quang phủ quanh thân Đằng Nguyên sáng rực lên. Hắn chạy vọt qua cầu gỗ, dùng hết sức bình sinh guồng chân phóng thẳng về phía cánh cửa lớn đang hé mở.

Bởi vì là ban ngày, bốn phía trống trải, lính canh bên trong giày đặc, lính trên các tháp canh đông nghịt nên bọn chúng khá lơ là. Vả lại lính canh chỉ mải chú ý đến nô lệ trong mỏ, canh gác để họ không xông ra ngoài chứ không nghĩ có kẻ điên lại chạy từ ngoài vào nên mất cảnh giác.

Đằng Nguyên cứ thế một đường chạy thẳng qua cửa, lướt qua giữa hai tên lính canh đang đứng quay lưng vào nhau, thành công vọt vào bên trong. Tàn ảnh của hắn lúc ẩn lúc hiện xuất quỷ nhập thần, thân thể xẹt qua để lại một làn gió nhẹ. Nếu tập trung nhìn sẽ lập tức phát hiện nhưng may mắn thay hắn không bị lộ, yên ổn ngồi thụp xuống nấp sau một tảng đá lớn.

Chỉ một tích tắc sau khi Đằng Nguyên ngồi xuống, mấy tên lính canh trên chòi chỉ trỏ với nhau, nghi hoặc nheo mắt nhìn. Sau đó chúng nghĩ chúng đã nhìn nhầm, lắc đầu cười cợt rồi tiếp tục buôn chuyện râm ran. Đằng Nguyên hú vía, ngồi im tại chỗ thu liễm khí tức, ẩn thân hoàn toàn cho đến khi trời nhập nhoạng tối mới rời khỏi chỗ nấp, tìm trù phòng của khu Thượng.