Nguyệt Minh Thiên Lý

Chương 107



Màn nỉ buông xuống, một phòng ánh nến chập chờn. 

Dao Anh bước theo sau lưng Đàm Ma La Già vào trong: “Pháp sư muốn nói chuyện gì?”

Người Đàm Ma La Già chợt khựng lại. Suýt nữa thì Dao Anh giẫm lên vạt cà sa, nhanh chóng dừng bước, ngẩng nhìn.

Chàng quay lại, ánh mắt dừng trên mặt nàng, đôi mắt xanh thật sâu. “Tất Sa còn đang kiểm tra cấm vệ trong chùa, công chúa đi nghỉ đi, đợi trời sáng Duyên Giác đưa người về.”

Dao Anh hơi kinh ngạc, Đàm Ma La Già giữ mình chỉ là vì lo lắng còn có kẻ xấu đang nấp trong Vương Tự sao?

Mấy hôm trước ngài cố ý yếu thế, ngoài Vương Tự ngư long hỗn tạp thì người ta mới dễ trà trộn vào chùa, giờ ngài vừa quét sạch triều đình, thu thập binh quyền, không ai còn dám công khai thăm dò Vương Tự, giới nghiêm khắp thành, hẳn không còn chuyện gì. Dao Anh còn tưởng Đàm Ma La Già giữ mình lại vì muốn thương lượng chuyện đề phòng Bắc Nhung chứ..

Thấy ấm áp trong lòng, nàng cười cười, “Vậy đêm nay lại phải quấy rầy Pháp sư rồi.”

Đàm Ma La Già không lên tiếng, hất màn gấm vào trong.

Dao Anh không vào cùng, quen chân tìm đến chỗ chăn mền ở gian ngoài, tìm một góc khuất, ôm chăn ngồi xếp bằng xuống. Gian ngoài thiền thất không xếp giường cao rộng rãi, chỉ đặt mỗi một tháp ngồi thấp bé, trên mặt đất trải thảm nhung, đêm qua nàng ngủ trên chiếc thảm ấy. 

Cả đêm qua nàng ngủ khá lâu, giờ không thấy buồn ngủ, định lấy giấy bút, bèn sát lại ánh nến nhìn kỹ.  

Màn gấm nhẹ lay, dưới ánh nến hiện một góc cà sa trắng tuyết. 

Dao Anh bưng giấy, ngẩng lên. Đàm Ma La Già đứng cạnh nàng, cặp mắt rũ xuống, mi đen nhánh, ánh nến yếu ớt hắt chiếu bóng chàng đổ thật dài trên đất.

Dao Anh không nhìn rõ vẻ mặt chàng, dụi mắt, nhỏ giọng hỏi: “Tôi làm ồn Pháp sư rồi ạ?” Khóe mắt nàng ửng đỏ như điểm qua chút son phấn, rõ ràng không cười nhưng giữa đôi mày vẫn khiến người nhìn thấy nụ cười nhẹ nhàng, ánh nến mông lung chiếu lên mặt nàng, mơ hồ mang theo mấy phần quyến rũ, ánh mắt lại trong vắt thanh tịnh.

Đàm Ma La Già quét mắt qua chỗ chăn mền cuộn bên cạnh. Dao Anh nhìn theo ánh nhìn của chàng, vỗ vỗ chăn, nói: “Tôi ngủ đây được rồi.”

Nàng từng ăn gió dầm mưa, lều vải, xe ngựa, đất cát, hang động, rừng cây, nơi nào cũng từng ngủ qua, chẳng quan tâm ngủ ở đâu. 

Đàm Ma La Già cúi người, dời cây nến.

Nguồn sáng duy nhất bị chàng cầm đi, Dao Anh hơi sửng sốt, đành phải đứng dậy bước theo. Đàm Ma La Già đi vào phòng trong, đặt cây nến trên chiếc bàn con cạnh một chiếc giường sau tấm bình phong, nói: “Ta chưa từng dùng chiếc giường này, công chúa có thể nghỉ ngơi ở đây.”

Trên giường thấp trải mấy lớp gấm Ba Tư, chăn gối đều đủ, phẳng phiu ngăn nắp, một nếp gấp cũng không có, đúng là chưa ai ngủ qua. 

Dao Anh cám ơn, thấy chàng xoay người định đi, nghĩ lát rồi hỏi: “Tôi có thể mượn ít bút mực trên thư án của Pháp sư chứ?”

Nàng sợ không cẩn thận sẽ làm lộn xộn bàn sách của ngài ấy, hoặc vô tình nhìn thấy thứ không nên thấy, ban ngày không dám động vào thứ gì trong thiền thất, đến giấy bút cũng nhờ Ba Murs hỗ trợ.

Đàm Ma La Già đưa lưng về phía nàng, gật đầu, nói: “Bày biện trong phòng công chúa đều có thể tùy ý lấy dùng, nếu thiếu thứ gì hãy gọi người đưa đến.”

Chàng đi ra, màn gấm rủ xuống ngăn cách gian trong gian ngoài.

Dao Anh bước đến trước thư án của Đàm Ma La Già, chọn lấy một cây bút, ngồi xếp bằng, tô tô vẽ vẽ trên giấy, động tác thật nhẹ.

Lần này Đàm Ma La Già chỉnh đốn bốn quân, không để Tô Đan Cổ lộ diện, hẳn đã có suy tính riêng mình, ngài là đối thủ quen thuộc của Ngõa Hãn Khả Hãn, chỉ có ngài ấy mới biết cách làm cho Ngõa Hãn Khả Hãn từng bước một mắc câu. Từ lúc nàng châm ngòi giữa Ngõa Hãn Khả Hãn và Hải Đô A Lăng, đến khi Hải Đô A Lăng, và mấy anh em Kim Bột tàn sát, rồi Ngõa Hãn Khả Hãn bố trí mai phục dụ Vương Đình xuất binh, giờ đây, sứ đoàn các nước tận mắt chứng kiến ngài ấy tự thân ra mặt thu lại binh quyền… Ngài ấy vẫn đang chơi ván cờ với Ngõa Hãn Khả Hãn.

Việc nàng cần làm là kiên nhẫn chờ đợi tìm cơ hội. Dao Anh yên lặng tính toán trong lòng, vẽ một tấm bản đồ trên giấy, vẫn không hài lòng.

Bụp một tiếng nhẹ vang, một sợi khói xanh lượn lờ bay lên, ánh nến đã tắt, trong phòng lâm vào một mảng u ám.

Dao Anh lấy lại tinh thần, vuốt vuốt ngón tay, dọn dẹp giấy tờ, rón rén trở lại trước giường ngủ, xốc màn gấm nhìn ra phía ngoài một chút.

Gian ngoài đen thui, dưới vài tia sáng âm trầm, Đàm Ma La Già xếp bằng trước trường án, nhắm mắt thiền định, bóng người như một pho tượng Phật, gió thổi không động.

Tối nào hòa thượng cũng ngủ vậy ư? Dao Anh thầm nói, nằm xuống, nhắm mắt lại.

Thiếp đi không đầy một lát, nàng trở mình, giữa mơ màng cảm giác một ánh mắt sắc bén dừng trên người mình, giật mình tỉnh mộng.

Ưng đậu trên kệ, một đôi mắt sâu toả sáng trong bóng đêm chăm chú nhìn nàng.

Cả người Dao Anh rùng mình, lập tức kịp nhận ra là Già Lâu La Phật Tử nuôi, không khỏi bật cười, nhắm mắt lại ngủ tiếp.

Còn chưa kịp ngủ, nghe bên tai có tiếng vỗ cánh, con ưng bay đến trước giường thấp, vuốt sắc bấu rách cả chăn, mỏ chim nhẹ mổ lên cánh tay nàng.

Dao Anh bị mổ hơi đau, bất đắc dĩ ngồi dậy. Con ưng to lớn chụp vào y phục nàng, cánh vỗ thật gấp gáp như muốn kéo nàng đứng dậy.

“Ngươi đói bụng à? Ta cho ngươi ăn ít thịt khô nhé?”

Con ưng không phản ứng, tiếp tục mổ Dao Anh. Dao Anh bị quấy chẳng thể ngủ lại, đành đứng dậy xốc màn gấm định nhờ Đàm Ma La Già hỗ trợ, vừa đảo mắt qua nơi chàng tĩnh tọa, giật nảy mình.

Người Đàm Ma La Già như phát run, mồ hôi rơi như mưa, trên mặt, trên cổ mồ hôi chảy ròng ròng, thấm ướt nửa bên cà sa.

Nhìn ngài ấy không ổn.

Con ưng đánh thức nàng là vì thế?

Dao Anh đi chân trần xuống đất, bước nhanh đến cạnh Đàm Ma La Già.

“Pháp sư?” Nàng nhẹ giọng gọi hắn.

Hai mắt Đàm Ma La Già nhắm nghiền, không phản ứng. Dao Anh duỗi ra hai ngón tay, nhẹ nhàng day day bờ vai của chàng.



Đàm Ma La Già nhập định.

Chàng phạm vào sát giới, đến Hình đường lãnh phạt, trên lưng đau đớn trận trận, kim đâm sâu tận xương tủy.

Ra lựa chọn đó, chàng nên nhận trừng phạt.

Khổ sở thế này tập mãi đã thành quen, cũng không thấy gì, từ Hình đường về thiền thất không ai phát hiện lạ thường, chỉ một thoáng chợt thấy khuôn mặt đang cười rực rỡ của thiếu nữ, chàng loạn nhịp một lúc.

Chàng thu xếp ổn thỏa cho nàng, im lặng niệm kinh, cảm giác như thần hồn mình đang bay bổng, ý thức trôi bồng bềnh, tâm tư không rõ ràng, như bị bóng tối vô biên nuốt sống.

Trong lao thất u ám, một cậu bé nhỏ mặc áo tăng màu xám đứng trước mặt một ông lão mặt đầy nếp nhăn đọc thuộc làu làu kinh văn, giọng nói trong trẻo.

Đàm Ma La Già nhận ra đó là chính mình lúc bé. 

Từ lúc mới sinh chàng đã bị giam ở Hình đường, mỗi ngày sư tôn Ba La Lưu Chi đến dạy Phật pháp, nói cho chàng mọi cảnh sinh linh đồ thán trong thời loạn, dạy chàng lấy Phật pháp cứu dân chúng trong chiến loạn, phổ độ chúng sinh.

Những quyển kinh chàng xem qua một lần đã thuộc, sư tôn dạy văn tự, rất nhanh chàng đã nắm bắt thành thạo, sư tăng trong chùa đến khảo giáo, chàng đối đáp rất trôi chảy. Họ đều nói chàng thông minh từ nhỏ, thiên tư khí khái, ắt sẽ thành một bậc vĩ đại trong Phật Môn.

Sư tôn vô cùng mừng rỡ, gởi gắm kỳ vọng lên chàng. “La Già, ngài là Quân chủ Vương Đình, Phật Tử chuyển thế, chắc chắn có thể bình định loạn thế, giải cứu chúng sanh khổ cực chia ly trong lửa chiến!”

“Dù Trương gia nắm giữ triều chính nhưng bất lực không thể khống chế thế cục, chỉ biết sưu cao thuế nặng, trắng trợn vơ vét, không được lòng người, lòng dân chỉ biết có Vương của dòng họ Đàm Ma, đợi khi lớn lên ngài tự mình chấp chính, cải cách chứng bệnh lâu năm, giúp dân chúng thoát khỏi bể khổ.”

“La Già, ngài phải tu tập Phật pháp thật tốt, sớm tự mình chấp chính!”

Đàm Ma La Già dốc lòng tu hành, chăm chỉ học thành một Phật Tử và Quân chủ đúng cách.

Tiếng tăm thông minh từ thuở nhỏ truyền ra, dân gian bắt đầu mong chờ chàng nhanh chóng tự mình chấp chính, thế gia thẹn quá hoá giận, nghĩ hết biện pháp tra tấn chàng, muốn triệt để đập tan chàng. 

Người gác canh không mang thức ăn cho chàng, đói đến choáng đầu hoa mắt, dựa vào từng quyển kinh Phật mà sống dày vò. Binh lính cố ý quất phạm nhân chỉ cách một bức tường lao thất, tiếng kêu thảm thiết lọt vào tai, nhớ đến lời sư tôn dặn dò, chàng yên lặng thuộc nằm lòng kinh Phật, xua đi sợ hãi.

Tuổi còn nhỏ, chàng đã thuộc lòng kinh văn, điển tịch, có thể xuất khẩu thành thơ, tuyên giảng lời Phật. Người đời kính ngưỡng yêu mến chàng, mong chàng mau trưởng thành, dẫn dắt họ đến cảnh yên vui thái bình. 

Nhưng, khi Trương gia đưa chàng đến quảng trường, một đao tiếp một đao chặt đầu người trong dòng họ chàng, chàng chỉ có thể đứng đó, chứng kiến từng người trong họ chết đi.

Người trong dòng họ khiếp đảm quỳ xuống xin tha, run rẩy dưới cây đao nhuốm máu. 

“Xin hãy ban hảo tâm, xin hãy ban hảo tâm, thả con ta ra!”

“Nó còn chưa cao đến cái bánh xe, giết ta, thả nó đi!”

“Xin hãy ban phát thiện tâm…”

“Thiên hộ tha mạng, tha cho ta đi, ta làm trâu làm ngựa cho ngài…”

“Van xin các ngươi, đừng giết mẹ ta, đừng giết mẹ ta…”

Đao giơ lên rơi xuống, máu thịt tung tóe, tiếng cầu xin im bặt, nhiều tiếng kêu gào khóc rống quyện nhau vang vọng thật lâu trên không của quảng trường.

Đàm Ma La Già đứng một chỗ giữa đống thi thể đổ rạp, máu tươi tung tóe đầy mặt mũi chàng, áo tăng dính đẫm máu từ từ nhỏ xuống, tí tách, tí tách.

Tiếng tí tách cực kỳ lâu. Lâu đến mọi tiếng van xin đã ngừng lại, trước mắt chàng chỉ còn mớ thây cụt đứt. 

Từng sinh mệnh tươi tắn, cứ vậy biến mất trước mắt chàng. Tiếng Xích Mã khóc rống cuồng loạn, thê lương tuyệt vọng.

Cô ta nắm chặt chàng, ngón tay co rút, gào thét với chàng.

“Sao ngươi không khóc? Sao đến một giọt nước mắt cũng không có?”

“Từ nhỏ ngươi đã xuất gia… Ngươi chẳng để ý thứ gì… Lòng ngươi chẳng biết tổn thương…”

Cô ôm lấy người thân đã chết, gào khóc.

Đàm Ma La Già bệnh nặng một trận, ngơ ngơ ngẩn ngẩn, vô số yêu ma lệ quỷ vây quanh chàng ca múa chúc mừng, thân nhân đã chết như hóa bầy quỷ ghé vào tai chàng thét lên đầy đau đớn. 

Chàng trầm luân trong cơn bệnh, giãy dụa, như đặt mình vào A Tỳ Địa Ngục thâm sâu, cơ thể không ngừng bị xé rách, thịt xương bị vô tình nện, chịu đựng dày vò.

Sư tôn xót xa thở dài, bảo chàng còn nhỏ đã tận mắt chứng kiến cả họ bị giết, bị kích thích mạnh, e là có tâm ma, sau này khó có thể tinh tiến trong Phật pháp.

Khỏi bệnh rồi, chàng lại cầm lên kinh Phật, nghiên cứu kinh văn. Sư tôn vui đến phát khóc. “La Già, ngài có thể vượt qua được ải này, quả nhiên bất phàm! Đây là thử thách ma luyện của Phật với con, con là A Nan chuyển thế, vốn phải trải qua từng con đường trắc trở, mới rèn được tâm tính cứng cỏi, đoạn tuyệt tình yêu, loại trừ phiền não, vào đến Niết Bàn, đạt đến Bồ Đề.”

Đàm Ma La Già ý chí kiên cường, đuổi đi tâm ma, cũng như trước kia, hết lòng tin rằng rốt cuộc Phật pháp có thể phổ độ chúng sinh.

Nhưng vẫn có chuyện Phật pháp làm không được. Phật pháp có thể chỉ dẫn chàng sinh tử, vượt tam giới, thực chứng diệt đế*, vĩnh viễn xa rời nỗi khổ luân hồi lục đạo. 

*Diệt đế hay tịch diệt, niết bàn là sự chấm dứt, tiêu diệt, dập tắt hay giải thoát khỏi khổ đau, phiền não. Diệt đế nhắc tới việc chấm dứt nghiệp để không còn luân hồi khổ đau; thuộc Tứ Diệu đế, “Đế” là lời nói thật, luôn đúng với chân lý, chân ngôn, vững chãi. “Tứ Diệu đế” hiểu nôm na là bốn điều chắc thật, không thể chối cãi.

Đạo Phật nhắc tới khổ đau trong đời người nhưng cũng đề cập đến hạnh phúc, an lạc khi tâm con người không còn ba độc “tham, sân, si”. Ta thường nhắc tới “cõi niết bàn” như là một cảnh giới cao siêu. Tuy nhiên, trong Đạo Phật, Niết bàn chẳng phải nơi nào đâu xa mà chính là ở đây – trong tay mỗi người. Cảnh giới của Niết bàn cũng chính là việc con người được giải thoát, không còn nỗi khổ do sinh tử luân hồi. (gg)

Thế nhưng Phật pháp không thể làm kẻ ác buông đồ đao, kinh văn không thể giải cứu người trong họ của chàng, hắn thân tộc, ca kinh Phật không thể cứu vớt vạn dân trong nước lửa.

Lửa chiến tán loạn, xác vương khắp đồng, khói lửa tràn ngập, hoang tàn nơi nơi. Già yếu bị tàn sát, người như sâu kiến, tên tuổi như cỏ rác.

Chàng không chỉ là Phật Tử, còn là Quân chủ Vương Đình. Nếu không thể nắm giữ thực quyền, sẽ không cách nào ngăn cản đồ sát.

Sau khi nghiên cứu tu tập Phật pháp, chàng bắt đầu học cách quản lý triều chính, cách hòa giải với đám thế gia, cách phỏng đoán lòng người.

Ba La Lưu Chi lén lút huấn luyện cận vệ cho chàng, chọn ra một nhóm con em quý tộc, lẫn một nhóm nô lệ bị mua bán như súc vật. 

Tất Sa thuộc nhóm đầu, anh ta chủ động yêu cầu được bái Ba La Lưu Chi làm thầy, thề ra sống vào chết vì chàng. Họ cần rèn luyện võ nghệ, trở thành thân binh trung thành nhất của chàng..

Ba La Lưu Chi lo lắng: “Chỉ với mấy người chúng ta, không thể nào rung chuyển thế gia được, La Già, ngài đang lớn lên từng ngày, họ sẽ không bỏ qua ngài.”

“Cứ cho rằng ngài có thể tự mình chấp chính, cũng không cách nào đoạt lại quyền hành, ngài sẽ bị thành làm cảnh, thành bù nhìn mặc cho họ xoay vần.”

“Ngài cần một người trợ giúp, người có thể trấn áp thế gia, thay ngài gánh chịu mọi giết chóc, vĩnh viễn trung thành và giúp đỡ ngài. Hắn ta nhất định phải lãnh khốc vô tình, không người thân không gốc gác, không có nhược điểm, không có gánh vác.”

“Hắn còn nhất định phải võ nghệ cao cường, dù gặp bao nhiêu gió tanh mưa máu, hắn đều có thể biến nguy thành an, kiên định đi theo ngài.”

Tất Sa và Duyên Giác tò mò hỏi tới: “Như là sư huynh Tái Tang Nhĩ Tướng quân của sư tôn ạ? Ngài ấy là Nhiếp Chính Vương, cả một đời trung với Vương thất, cúc cung tận tụy cho Vương, chinh chiến cả đời, ngài ấy là dũng sĩ số một lợi hại nhất Vương Đình cả trăm năm nay!”

Một tia phiền muộn lướt qua khuôn mặt già nua của Ba La Lưu Chi. “Đúng, giống Tướng quân Tái Tang Nhĩ ấy.”

Ba La Lưu Chi nói cho học trò: “Thứ Tái Tang Nhĩ tướng quân tu tập là công pháp Phật môn bí mật tuyệt đối của Vương Đình, đời đời truyền lại, gọi là Kim Cang công pháp, bá đạo dũng mãnh, nếu luyện thành, hẳn sẽ thành cao thủ tuyệt đỉnh, nhưng người tu tập bắt buộc phải có tâm tính thuần lương, ý chí và tự chủ cực kỳ mạnh mẽ, nếu không, một khi tâm tính dao động, rất dễ tẩu hỏa nhập ma, bị công pháp phản phệ, trở thành ác ma tàn sát lãnh khốc, cho nên trước giờ tu tập loại công pháp này đều là đệ tử Phật môn.”

Nhóm thiếu niên lang tranh nhau muốn học công pháp, họ đều muốn trở thành anh hùng đỉnh thiên lập địa như Tướng quân Tái Tang Nhĩ.

Ba La Lưu Chi lắc đầu thở dài. “Từ lúc bắt đầu luyện loại công pháp này cần phải kiên trì uống thuốc viên áp chế công pháp, mỗi lần tán thuốc cực kỳ tổn thương thân thể, mới đầu chỉ là tứ chi không có lực, từ từ ngày càng đau đớn, xương cốt khắp người như bị voi dày, càng về sau, cặp chân sưng lên, dần dần không thể đi lại, cho đến cuối cùng sẽ thêm tiều tụy, dầu hết đèn tắt.”

“Luyện công pháp này, đã biết sẽ chết ngay khi tuổi còn trẻ khoẻ, các ngươi còn muốn luyện ư?”

Mấy thiếu niên chần chừ một chút rồi kiên định gật đầu.

Vì Phật Tử, họ tình nguyện!

Ba La Lưu Chi bắt đầu dạy họ luyện công pháp. Nhưng thực sự nó quá tà môn, mấy thiếu niên tiên phong học được mấy tháng ngay trong một lần vận công khí chuyển đi đường khác, manh nha có dấu hiệu khống chế sai sót.

Ba La Lưu Chi sợ họ mắc sơ sót, không dám cho tiếp tục học, bắt đầu dạy Tất Sa và Duyên Giác.

Hai người này cũng không thích hợp luyện Kim Cang công pháp, không chịu nổi, những đệ tử trước từ từ cũng biểu hiện mấy triệu chứng khó chịu.

Thời đó, có một thiếu niên xuất thân nô lệ vì muốn công pháp đột phá, trộm uống thuốc quá liều, thất khiếu* chảy máu, suýt chết, dù cuối cùng may mắn giữ được tính mạng nhưng đã thành phế nhân.

Mà người thích hợp luyện công pháp nhất thì tính tình táo bạo, trong một lần đấu võ suýt nữa lỡ tay giết huynh đệ, tỉnh táo lại vẫn không chút nào hối hận, chỉ muốn sớm luyện thành công pháp, sẽ là vô địch. 

Ba La Lưu Chi gần như tuyệt vọng.

Đàm Ma La Già tìm tới: “Sư tôn, người từng nói ta căn cốt khó gặp, để ta thử xem.”

Ba La Lưu Chi quá sợ hãi: “Không được, con là Phật Tử, là Quân Vương, sao có thể luyện loại công pháp này chứ? Luyện thì cả đời này coi như xong! Con cứ nghiên cứu học Phật pháp cho thật tốt, đừng quan tâm những thứ này.”

Đàm Ma La Già nhìn ra đám thiếu niên lang chăm chỉ luyện công, chắp tay trước ngực, vẻ mặt bình tĩnh. “Ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục?”

Nếu như chỉ có thủ đoạn sấm sét mới có thể thành tựu tấm lòng Bồ Tát, chàng nguyện gánh mọi nghiệp báo, tự mình giết giặc.

Ba La Lưu Chi chấn động cả người, chăm chú nhìn chàng thật lâu, thở dài, cho chàng thử luyện tập công pháp. Sau ba tháng, Đàm Ma La Già không hề có chút dấu hiệu bị ảnh hưởng từ công pháp, nỗi đau đớn khi tán thuốc cũng có thể cắn răng vượt qua.

Chàng chính là Nhiếp Chính Vương thích hợp nhất.

Ba La Lưu Chi thở dài thật dài. “Có lẽ đây là ý trời…”



Sau khi đoạt lại Vương quyền, Trương gia nhận trừng phạt. Xích Mã yêu cầu chàng đuổi tận giết tuyệt nhà họ Trương, nam nữ già trẻ, người già trẻ em chi xa, một người cũng không tha.

Chàng cự tuyệt.

Nỗi đau đớn đã từng hành hạ trên người đến khắc cốt, chàng sẽ không trả thù người vô tội.

Xích Mã thất vọng chửi rủa. “Ngươi quên những người đã chết ngay trước mắt ngươi rồi sao? Ngươi căn bản không quan tâm đến Đàm Ma gia! Ngươi không xứng là Vương!”



Đàm Ma La Già chưa từng hối hận vì quyết định này của mình, do đó mấy năm qua rất ít khi hồi tưởng. Chàng nhìn mình thời niên thiếu ngăn Xích Mã truy sát người dân vô tội, lạnh nhạt quay đi, mặc cho cô ta khóc lóc nguyền rủa quát mắng sau lưng.

Ảo ảnh trước mắt mờ nhạt dần. Trong bóng tối từ từ xuyên qua sợi sáng nhè nhẹ ấm áp. Một tiếng gọi dịu dàng vọng bên tai. “Pháp sư?”

Đàm Ma La Già mở to mắt.

Khuôn mặt lo lắng của thiếu nữ ngay trước mặt, đôi mắt thon dài phản chiếu khuôn mặt ròng ròng mồ hôi của chàng, trong tay cầm chiếc khăn, nhẹ nhàng lau mồ hôi túa giữa cặp mày của chàng. 

Chàng nắm chặt tay nàng, nhìn cặp mắt thanh tịnh của nàng. 

“Cô từ đâu đến?”

Dao Anh ngẩn người, chớp chớp mắt, vẻ mặt hơi mờ mịt, nhẹ nói: “… Từ Ngụy triều Trung Nguyên.”

Đàm Ma La Già nhìn nàng thật lâu rồi nới lỏng tay.

Một vạn dặm, xa xôi như thế, cách đại mạc mờ mịt, dãy núi liên miên, mênh mông sông dài.

Vì đâu lần lượt nàng cứ đi đến bên cạnh chàng.