Bí Ẩn Làng Bưởi Cuốc

Chương 123: Hoàng Anh Mộc (P.1)



Vân Nam là một tỉnh nằm ở phía Tây Nam của Trung Quốc hiện nay với dân số bằng khoảng ½ Việt Nam, có địa giới giáp ranh với tỉnh Hà Giang và Lào Cai. Năm 937, Đoàn Tư Bình sáng lập ra vương quốc Đại Lý, trải qua 22 đời vua thì bị tiêu diệt bởi đế quốc Mông Cổ vào khoảng năm 1253 (lúc này Việt Nam có tên gọi là Đại Việt thuộc nhà Trần), một số cư dân Đại Lý đã rút chạy trong ly loạn xuống phía Tây Nam và trở thành một bộ phận người Thái của Việt Nam hiện nay. Năm 1258 trong cánh quân Nguyên Mông thâm nhập Đại Việt của tướng Ngột Lương Hợp Thai có không ít kỵ binh thuộc nước Đại Lý đã diệt vong trước đó. Trong suốt chiều dài lịch sử khoảng hơn 300 năm thì Đại Lý đã có rất nhiều cuộc đụng độ với các triều đại của Việt Nam, đặc biệt là vào giai đoạn đầu thế kỷ 11 khi Lý Công Uẩn vừa lên ngôi vua và định đô ở Thăng Long thành.

Mâu thuẫn giữa nước Đại Cồ Việt và nước Đại Lý khởi nguồn từ việc cả hai bên đều muốn tranh giành tầm ảnh hưởng ở vùng đất nay là miền núi Tây Bắc của Việt Nam. Vào khoảng đầu thế kỷ 11 thì vùng đất này là nơi cư trú của cộng đồng người Tày, Nùng, Thái... những sắc dân ở vùng phên dậu này được gọi chung là người Man, đứng đầu là các tù trưởng hoặc lãnh chúa. Nước Tống – Đại Lý – Đại Cồ Việt, cả 3 đều muốn tranh giành ảnh hưởng tại vùng này nên quyền uy của những tù trưởng là rất lớn, biên giới của một đất nước sẽ co giãn theo ý của tù trưởng, mà ý của tù trưởng thì lại phụ thuộc vào việc ai cho mình nhiều quyền lợi hơn. Nhiều vùng Tây Bắc thuộc tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang đã dần dần trở thành vùng ảnh hưởng của nước Đại Lý trên thực tế thông qua buôn bán, quyền lợi...

Trước khi Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) lên ngôi thì chế độ phong kiến của Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ quá độ từ tản quyền lên nhà nước trung ương tập quyền bởi vì thế quyền lực của vua chưa mạnh, chưa bao quát hết được. Lý Thái Tổ sau khi lên ngôi đã giúp cho triều chính có nhiều biến chuyển và nhanh chóng xây dựng một lực lượng quân đội hùng mạnh, thiện chiến. Cuối năm 1012, nhận được tin người Đại Lý đem ngựa đến buôn bán ở vùng Tây Bắc dưới sự bảo vệ của tù trưởng Hà Trắc Tuấn mà không xin phép triều đình, vua đã sai quân đến bắt các thương nhân người Đại Lý, tịch thu 1 vạn con ngựa. Năm 1013 vì để rửa mối thù nên đã chuẩn bị trả đũa, bản thân tù trưởng Hà Trắc Tuấn cuốn muốn chống lại triều đình ngả về bên Đại Lý nên đã khởi binh liên thủ với nước Đại Lý chuẩn bị tiến đánh Đại Cồ Việt.

Tiên hạ thủ vi cường, Lý Thái Tổ thân chính tiến đánh Hà Trắc Tuấn trước khi quân Đại Lý kéo đến, Hà Trắc Tuấn không địch lại nên rút vào các hang núi trú ẩn chờ cứu viện. Vua Lý Thái Tổ cũng cho rút quân về đồng bằng vì không quen thông thổ, đến đầu năm 1014 thì Đại Lý ồ ạt đưa khoảng 5 vạn quân sang tiến đánh nước Đại Cồ Việt.

Quân Đại Lý có thế mạnh về ngựa chiến, ngựa chiến Đại Lý có thể nói là tốt nhất vào thời ấy còn Đại Cồ Việt dùng tượng binh và bộ binh, bộ binh của Đại Cồ Việt có thể xem là thiện chiến vì trải qua nhiều trận mạc. Một hoàng tử con của vua Lý Thái Tổ đã chỉ huy cuộc tấn công trực diện vào quân đội của Đại Lý, bắt sống được tướng chỉ huy và truy kích vua Đại Lý hồn siêu phách đảm, kể từ đó nước Đại Lý mới chịu yên phận mãi cho đến khi quân Nguyên Mông xuất hiện. Đối với tù trưởng Hà Trắc Tuấn, vào năm 1015 có liên minh với các tù trưởng khác quyết chiến với nhà Lý để lập cõi riêng nhưng bị quân đội nhà Lý đánh tan tác, Hà Trắc Tuấn bị giải về kinh đô Thăng Long, chém đầu thị chúng sau đó bêu ở cửa Công thành.

Nước Đại Lý diệt vong, con dân nước Đại Lý tứ tán và có nhiều người đã chọn vùng Đồng bằng Bắc Bộ của Việt Nam làm nơi cư ngụ, ở lẫn vào cộng đồng người Việt nhưng họ cũng mang theo những bí mật của Tổ tiên như phép phù thủy, võ công bí truyền... Trong vụ án hồ Diêu Đàm nổi tiếng cuối thế kỷ 11, đời vua Lý Nhân Tông, đã làm cho trạng nguyên khai hoa Lê Văn Thịnh (người Gia Bình, Bắc Ninh) thân bại danh liệt, gián tiếp gây ra cái chết tức tưởi cho ông. Sau khi ông Lê Văn Thịnh bị bắt giữ, gia đình bị tra xét, trong giố gia nhân của ông có một người gốc Đại Lý tương truyền giỏi làm xảo thuật che mắt, chính điều này đã là cái cớ để những người đối nghịch với ông Lê Văn Thịnh vin vào, họ cho rằng ông muốn dùng tà thuật hành thích nhà vua.
Tính từ lúc nước Đại Lý bị diệt vong cho đến khi chị Ngọc Hoa công chúa ra đời là khoảng 154 năm, cha của chị Ngọc hoa có tham gia chống Minh từ thời nhà Hồ rồi Hậu Trần nên có thể tính ngược ra rằng ông cụ ấy trước đó đã có cơ duyên theo học võ thuật của phái Không Động của một bậc cao nhân nào đó và sau này truyền thụ lại cho các con của mình. Dòng thời gian cứ trôi đi và khi kết thúc một sự kiện này thì khả năng lại là tiền đề cho một sự kiện khác, một câu hỏi tôi đã tự đặt ra là

“Liệu lão thầy phù thủy yểm chị Ngọc Hoa, chị Ngọc Khuê có liên quan gì đến nước Đại Lý xưa kia hay không?”

Đây là một câu hỏi rất khó để trả lời, thậm chí là không thể trả lời.

***Câu chuyện được kể bởi Fb Nam Ngủ Yên

Tôi đang ngủ thì lại bị gọi dậy, đôi khi cũng bực mình muốn văng tục vì bà Già không bao giờ gọi tôi mà chạm vào người, thói quen của bà là gọi và gọi, đằng này ai đó chứ kéo chân, vỗ mông hoặc thậm chí cốc vào trán. Tuy cảm thấy bực là vậy nhưng khi mở mắt rồi dậy trên tâm phản thì thái độ của tôi thay đổi ngay tức khắc, trước mặt tôi là Ông Mãnh nay đã khác, ông ăn bận một cái áo nhìn rất cầu kỳ, trên mái tóc cắt ngắn là một cái khăn xếp, nhìn chẳng hợp với cái áo chút nào, đúng kiểu nhà giàu mới nổi rồi.

-Ô! Cháu... cháu chào... chào cụ ạ!
-Mày muốn bao nhiêu tao cho mày. – Ông Mãnh để lên tấm phản một cái bọc màu sáng rồi mở ra. – Vàng, bạc, giấy cầm cố, tiền xu... chỗ này cũng khá đấy.
-Th... thưa cụ, cái này là... ?

Tôi vừa nói vừa lồm cồm bò khỏi tấm phản, kinh nghiệm xương máu chỉ ra rằng tốt nhất không nên ngồi cao hơn cha ông của mình, dễ ăn bạt tai lắm.

-Tao thắng, đây chỉ là của làng này thôi, mày muốn bao nhiêu? – Ông Mãnh nói nhưng không nhìn tôi, hai tay Ông Mãnh còn đang bận nhặt ra mấy thỏi bạc, thỏi vàng nhỏ nhỏ. – Con cháu như mày có hiếu thật đấy, tao xin mày tưởng được một ít lận lưng mà mày gửi cho tao cả một bị toàn vàng nén, bạc thỏi, mày xem ra cũng là đứa cháu khéo léo, biết cậy nhờ đấy nhỉ?
-Dạ...- Tôi đứng hơi khom người, hai tay chắp vào nhau.
-Mày quen bà chị kia lâu chưa? – Ông Mãnh nhà tôi hỏi.
-Dạ, thưa cụ, là ai ạ?
-Cái cô mặc váy đỏ. – Ông Mãnh chép miệng, hất hàm. - Tóc đen dài dài ấy, đẹp đẹp là.
-À, dạ cũng mới đây ạ, chị ấy ở chung đất với nhà mình ạ, thưa cụ.
-Người đâu mà tốt nết lại đẹp, tao chưa gặp bao giờ.
-Vâng thưa cụ, quả là chị ấy tốt bụng và xinh đẹp.
-Ngoài việc cho tao cả đống vàng, cô ta còn chỉ cho tao cách chơi với thêm vài mánh nữa, làng này bây giờ còn đứa nào dám chơi với tao. – Ông Mãnh tỏ ra đắc ý.
-Thưa... thưa cụ. Bà nội cháu bảo là không nên chơi cờ bạc, nếu có chơi thì cũng chỉ là vui thôi chứ không sẽ tán gia bại sản, cụ cũng nên... nên cẩn thận ạ.
-Bà mày là đàn bà biết cái gì, tao đây có một thân một mình phải tìm thú vui cho bản thân chớ. – Ông Mãnh vừa nói vừa hất hàm về phía tôi. – Nào mày muốn bao nhiêu, hay tao cho mày hết luôn.
-Thưa cụ, hay là cụ để dành mà chơi hoặc biếu các bậc gia tiên tiền tổ nhà mình mỗi người chút ít cũng tốt. Bố cháu cũng hay gửi tiền về nên cháu cũng không thiếu thốn gì ạ.
-Thằng này lạ nhỉ?! Tính tao rất sòng phẳng, tao xin tiền của mày rồi mày lại đi nhờ vả người khác giúp tao như thế là trái thói đời. Tao là cha ông chưa độ giúp mày mà lại muối mặt đi nhờ cậy mày, giờ mày không chịu lấy có phải là mày coi thường tao là đứa cờ bạc đúng không?
-Dạ không, đời nào cháu nghĩ như thế ạ, cụ đừng đánh giá cháu như thế phải tội ạ. Cháu còn sống thì làm sao lại nhận đồ của người đã khuất được, thêm nữa bà nội cháu bảo là cung phụng tổ tiên là việc nên làm, xin cụ hiểu cho cháu.
-Không nói nhiều, trưa mai giờ Ngọ tao sẽ đưa vàng cho mày xem như tao cho lộc con cháu, đi ra bụi tre nhỏ gần căn nhà xây dở ở ngay chỗ ngã ba, bới gốc tre lên rồi lấy về.
-Ơ, cụ ơi...
-Giờ tao phải đi đã.

Ông Mãnh xách tay nải lên thì lập tức biến mất, giấc mơ của tôi dừng ở đấy, tôi tỉnh giấc vẫn nằm trên phản và hé mắt ra nhìn nhưng chẳng có ai, tôi hơi lo lắng về việc Ông Mãnh sẽ trả vàng cho mình nhưng một lúc sau thì mí mắt sụp xuống, tôi tiếp tục chìm vào giấc ngủ.

***

Tôi đang lúi húi cất sách vở vào cặp thì thằng Tuệ còi quay sang hỏi tôi.

-Nhà mày có cây duối không?
-Để làm gì? – Tôi hỏi lại.
-Bên làng tao đang có người đi hỏi mua cây duối đấy, nhà ai có họ cũng đều muốn mua, nghe bảo là trả cũng được giá.
-Cây đấy thì có gì quý hóa mà mua, tao thấy cây ấy còn mọc cả ngoài cánh đồng, nhà mày có cây nào không?
-Có mỗi một cây nhưng khi đến xem thì họ bảo mới được mấy chục năm nên chỉ trả có Hai trăm nghìn, bố tao không bán.
-Nhà tao chẳng có, làng tao thì cũng có nhiều nhưng toàn trồng gần miếu mạo, chẳng ai dám dụng đến đâu. Chỗ đền Bình Ngô của xã mình tao thấy mạn hàng rào gần đường cũng có mấy cây duối cổ thụ, họ cũng mua luôn à?
-Họ chỉ tìm mua của nhà dân, không mua cây ở đền, đình hay chùa.
-Cây ấy về làm gì nhỉ? – Tôi thắc mắc.
-Chắc làm thuốc, tao nghe nói là cây ấy chữa được bệnh.
-Thời buổi hiện đại rồi, ốm đau thì đi viện cho nó nhanh.

Trên đường đi học về tôi hỏi R9 và Chắc Gạo.

-Nhà chúng mày có cây duối không?
-Nhà tao có! – Chắc Gạo đáp – Gần miếu nhà tao có hai cây.
-Nhà tao cũng có một cây gần bờ ao chỗ nhà xí, để làm gì?
-Tao nghe mấy đứa lớp tao bảo ở làng nó có người đi mua cây duối đấy, chúng mày từng nghe việc tương tự như thế bao giờ chưa?
-Cây đấy thì quý báu gì mà mua, mọc um tùm thi thoảng bà tao vẫn chặt bớt dây leo với cành đấy. – Chắc Gạo nói. – Nhưng quả chín của cây đấy ăn được.
-Tao nghĩ cứ là cây cối thì chắc sẽ có thể làm thuốc được. – R9 phán chắc nịch. – Nhiều cây cối trong vườn đều có thể làm thuốc nhưng mình phải là thầy lang cơ. Thế nhà mày có cây nào không?
-Cũng tính là có nhưng lại không. – Tôi lưỡng lự trả lời.
-Tại sao? – Cả hai thằng cùng hỏi một lượt.
-Tại cái cây ấy tao nhìn nó bị sâu mục rồi, mà gốc thì nằm sát bụi tre còn toàn bộ thân đã vươn hết ra ngoài cánh đồng. Mấy lần bà tao sai tao chặt bớt cành về làm củi nhưng tao thấy cái củi mục của thân cây ấy lạ lắm, làm bùi nhùi được thì phải, mấy lần bà tao đốt khói um.

Tôi vừa kể vừa cười, quả thật cây duối ấy tôi đã nhiều lần trèo lên để chặt bớt những cành mục, mặc dù vậy cũng phải vất vả lắm tôi mới có thể chặt được những cành bên ngoài bị sâu mục to bằng cổ tay. Tôi không biết đây có phải là cây duối cổ hay không nhưng vị trí của nó nằm gần góc Đông Bắc của thửa đất, toàn bộ phần gốc nằm sâu trong lũy tre và phần thân cây tính từ đất cao khoảng 50cm thì bắt đầu có xu hướng nghiêng ra hướng Đông đón ánh mặt trời.

-Chúng mày muốn kiếm tiền không? – Tôi đột nhiên hỏi hai thằng bạn.
-Ở đâu? – R9 ngạc nhiên hỏi lại.
-Về làng thì phải kháo với những đứa khác nếu nhà bọn nó có duối, kê giá lên mà lấy nhiều tiền nếu bán, tao không tin những người này đi mua duối về làm thuốc chữa bệnh đâu.
-Sao mày không tin?
-Tao nghĩ nếu họ mua về chữa bệnh thì khác, ví như nếu tao mà làm thầy lang thì tao tự đi xin cây hoặc đầy người sẽ mang cho tao vì tao dùng để chữa bệnh, tao chưa thấy ai phải đi mua cả. Chúng mày cũng biết thầy lang họ có quan tâm đến tiền bạc đâu, tao thấy bà già tao đi cắt thuốc về sắc uống mà chẳng đáng bao nhiêu tiền nên nếu họ mua làm thuốc thì tao cho luôn, không bán.
-Ê, ê nhà sư kìa chúng mày! – Chắc Gạo hất hàm về phía trước.

Tại sao Chắc Gạo lại tỏ vẻ ngạc nhiên? Tôi không biết ở các vùng quê khác ra sao nhưng ở làng của tôi hay xã tôi ở thì rất hiếm khi nhìn thấy các nhà sư, họ đều ở trong chùa tụng kinh niệm phật là chính.

Tôi nhìn lên phía trước thấy hơi lạ vì nhà sư này cạo đầu nhìn không trơn láng và có vẻ là mắt nhìn thẳng phía trước. Nhà sư này tôi chỉ nhìn từ phía sau nên không biết có còn tráng niên hay đã trung niên, nhà sư tuy đi chân đất nhưng bước đi nhanh phăm phăm, gót chân trắng không có nhiều vết chai. Ba chúng tôi chẳng ai bảo ai lặng lẽ đạp xe qua, thói quen của bọn tôi là gặp nhà sư thì nên im lặng một đoạn tránh làm phiền đến họ.
---
***

vô địch lưu , hài hước đọc giải trí