Tam Luân

Chương 74: Do thám



Đằng Nguyên dẫn Du Hạo, Cẩm Bàng và Lộc Tử chạy loanh quanh trong rừng, tranh thủ bắt mấy động vật nhỏ có thịt. Chuột, rắn, chồn, thỏ, gà… cứ con nào có chút thịt là hắn đuổi theo bắt. Chạy đến chập tối khiến đám Du Hạo cũng hoa mắt chóng mặt, đói meo cả bụng, hoang mang không biết Đằng Nguyên định làm trò gì.

Đi tìm chết mà hắn nói chẳng lẽ lại là đi săn, tìm cái ăn?

Hay để lại dấu chân khắp nơi trong rừng dụ Bạch Đà quân tới bắt?

Lộc Tử mấy lần muốn hỏi nhưng mắt thấy trong giỏ sau lưng Đằng Nguyên đầy nhóc những thứ ăn được, một đường chạy quanh không hề gặp mống lính Bạch Đà quân nào thì kiềm chế, không hỏi. Gần tối, Đằng Nguyên bảo ba nô lệ nhặt củi rồi dẫn họ quay lại chính dãy núi thấp ban ngày, chui vào một sơn động lớn gần thác nước.

Sơn động này khô ráo nhưng gần nguồn nước, cửa vào nhỏ, vòm động lại lớn không ngờ, không phải động cụt, có mấy cái ngách nhỏ dẫn chẳng biết dẫn đi đâu. Đằng Nguyên giao cho đám Du Hạo, Cẩm Bàng, Lộc Tử đốt lửa nướng chỗ thú đã bắt được. Hắn chạy mất hút một đường đến tối mịt mới về, ném vào đống lửa ba nắm cỏ tươi có mùi hắc hắc khiến lửa gần tắt, khói bốc lên mù mịt. Hắn đưa cho ba nô lệ mấy nhánh cây:

- Nhai nát, nhả bã. Nhanh…

Du Hạo nhận lấy, ném ngay vào miệng rồi hỏi:

- Gì đây?

- Thuốc giải. – Đằng Nguyên chỉ vào đám cỏ khô. – Cỏ có độc… Hít phải khói này lập tức không xong.

Sau đó hắn điềm nhiên ngồi xuống cạnh đống lửa khiến ba nô lệ trợn mắt sửng sốt, ai nấy vội vã nhai nát nhánh cây, nuốt nước. Mùi vị vô cùng tệ, Cẩm Bàng suýt nôn nhưng cố kiềm chế. Lộc Tử hỏi:

- Cỏ độc đốt làm gì?

- Lát biết ngay.

Đằng Nguyên gỡ một con chuột trên xiên xuống, không khách sáo ngoạm một miếng lớn. Ba người kia chỉ chờ có thế, lập tức lấy thịt tự ăn. Thịt thú nhỏ đã nướng xong từ lâu nhưng vì chờ Đằng Nguyên về nên chưa ai động tay, giờ hắn ăn trước, ai còn kiềm chế được.

Dù chỉ là thịt linh tinh nướng lên nhưng vì mấy ngày trời không được đốt lửa, không ăn qua cái gì tử tế, một bữa này với cả bốn hán tử đều là mỹ vị. Đằng Nguyên gật gù khen ngon, ăn một hồi thì bắt đầu nói chuyện:

- Chúng ta sẽ ở đây ít ngày. Bình thường nếu không có việc gì, không cần ra ngoài. Có nước, chỉ cần kiếm củi về là được. Đồ ăn ta sẽ lo.

- Không sợ lộ sao? – Du Hạo liếc quanh động, bất an. – Đốt lửa sẽ có khói… Chạy quanh lập tức để lại dấu chân.

- Tạm thời không lộ. – Đằng Nguyên nhếch mép cười. – Nhiều dấu chân hỗn loạn lẫn với móng ngựa và dấu vết của bộ binh, lần ra được mới lạ. Lối vào động này toàn đá, hơi nước mù mịt cũng khó in dấu chân chúng ta… Chỉ cần cẩn trọng khi ra ngoài lấy củi là ổn. Đốt lửa bên trong ánh sáng không lọt ra ngoài, có thác nước che chắn bớt, khói bốc lên cũng như hơi sương mờ mịt mà thôi. Hồi nãy ta đã quan sát, không thành vấn đề.

— QUẢNG CÁO —

Ba người Du Hạo gật như gà mổ thóc, tâm tình thả lỏng.

Ăn sắp xong, Lộc Tử giật thót mình nhìn vào phía trong động, nơi có một cái ngách nhỏ. Mắt gã đảo láo liên lo lắng:

- Đằng huynh, có nghe tiếng gì không?

Hai người còn lại lập tức căng thẳng. Đằng Nguyên điềm nhiên khều khều đám cỏ tươi vẫn còn bốc khói. Cả sơn động mờ mịt khói, khói bốc lên tản ra, chui vào khắp các ngóc ngách trong khe đá. Các loại sinh vật linh tinh trong sơn động hít phải khói, loạt soạt tìm đường tháo chạy trối chết ra ngoài.



Hắn trấn an:

- Không việc gì. Do khói mà ra. Chốc lát nữa thôi sơn động này sẽ chỉ còn bốn huynh đệ chúng ta. Đám chủ nhà cũ phải dọn đi chỗ khác rồi…

Một con gì đó đen thùi lùi vừa kêu choắc choắc vừa lao từ trong ngách ra, đâm đầu vào vách đá, lảo đảo một chút rồi tiếp tục hướng cửa sơn động mà bỏ chạy trối chết. Ba nô lệ thở phào nhẹ nhõm, thán phục:

- Thần kỳ thật. Ta lớn từng này còn chưa từng nghe nói đến loại cỏ có thể đuổi được chuột bọ…

- Nhưng huynh nói cỏ này có độc mà?

- Đúng. – Đằng Nguyên gật đầu. – Không thể dùng bậy. Hôm nay đốt trong này xông cả tóc và y phục chúng ta, đêm có thể yên tâm ngủ, không sợ bị côn trùng, chuột bọ cắn. Ngày mai các đệ ra ngoài kiếm củi ta sẽ đốt thêm lần nữa, chúng ta dọn sạch động, bài trí chút cơ quan báo động bên ngoài, ở lại đây nghỉ ngơi ít hôm. Trước kia đông người rất khó tìm chỗ, giờ chỉ bốn huynh đệ chúng ta thì đơn giản rồi. Bồi bổ chút, có sức mới làm được việc.

Ba nô lệ hiểu ra dụng ý của Đằng Nguyên, không còn gì thắc mắc, chia nhau ăn hết chỗ thịt nướng. Dù mới chỉ lưng lửng bụng nhưng so với nhai cỏ khô và lá cây, đây quả là một bữa ăn đúng nghĩa.

Xong xuôi, Đằng Nguyên lăn một tảng đá lớn chèn trước cửa động chống dã thú rồi nằm kềnh ra chỗ bằng phẳng gần đống lửa, nhắm mắt muốn đánh một giấc.

Du Hạo và Cẩm Bàng lập tức nằm theo. Lộc Tử lo lắng hơn, khều khều đống lửa:

- Không cần chia gác?

- Không cần… - Đằng Nguyên thở dài khoan khoái. – Chưa thể lộ ngay được đâu. Chúng ta nhảy từ trên thác xuống, trôi theo dòng một đoạn rất xa, nhóm kia còn đang bỏ chạy trối chết…

Tóm lại kỵ binh và bộ binh còn mải đuổi theo nhóm của Trình Hạ, sẽ chưa lập tức quay lại lùng sục những nhóm khác. Họ có thể yên tâm ngủ ngon một đêm.

— QUẢNG CÁO —

Lộc Tử lập tức hiểu ra, trầm ngâm hồi lâu, lẩm bẩm:

- Liệu đội Trình Hạ có an toàn không? Thoát nổi không?

- Có khả năng lắm. Điền Đông, Lưu Ngọc Lâm và các thợ săn khác rất biết nhìn địa hình, chỉ cần vào được một khoảng rừng rậm, kỵ binh và bộ binh cũng phải chùn chân. Chúng là phàm nhân như chúng ta, cần ăn uống nghỉ ngơi, không thể chạy đêm… Nếu có thể an toàn qua được đêm nay, ngày mai sẽ tốt hơn.

Đằng Nguyên động viên ba nô lệ cũng như trấn an chính mình.

Hắn chạy loạn trong rừng cả buổi chiều để làm nhiễu dấu vết, muốn câu giờ cho các huynh đệ chạy trốn. Dù không biết hiệu quả được bao nhiêu nhưng còn hơn chẳng làm gì.

Lộc Tử yên tâm nằm xuống.

Lửa tàn dần, bốn nô lệ lần lượt chìm vào giấc ngủ.



Đằng Nguyên, Du Hạo, Cẩm Bàng và Lộc Tử ở trong sơn động bên cạnh thác nước đến hết tháng tư, vừa ẩn nấp vừa thám thính xung quanh. Bạch Đà quân rảo qua rảo lại mấy lượt nhưng không phát giác ra bọn họ, nghĩ rằng nơi này chẳng còn nô lệ bỏ trốn, không tiếp tục lùng sục nữa.

Đằng Nguyên thường để đám Du Hạo tự đi săn bắt, kiếm thức ăn, mình hắn chạy rất xa khắp nơi do thám động tĩnh của Bạch Đà quân.



Chúng dàn quân đuổi hết nô lệ quay ngược vào rừng, quần thảo giết sạch những nhóm trúng độc yếu ớt, bắt lại một số nô lệ nhưng không đưa về mỏ Dạ Cổ mà gông cổ kéo về thành Huỳnh Tương. Đằng Nguyên nhìn thấy rất nhiều nhóm nô lệ bị lôi xềnh xệch trên đường mòn, thảm không sao tả nổi. Họ đều là những người cầm cự được trước sự tấn công của độc dược, có bản lĩnh tồn tại trong rừng, trụ được lâu nhất. Thế nhưng cuối cùng họ vẫn bị tóm sống. Ai nấy gầy gò chỉ còn da bọc xương, ánh mắt ngập tràn hận thù, tắt ánh sáng hy vọng.

Đằng Nguyên quan sát một thời gian, tâm tình bình thản, thậm chí đi ngang qua những chỗ thảm sát nô lệ, thấy xác chất thành đống bị thương xiên thành xiên chồng lên nhau hắn cũng không còn bi phẫn như trước. Phàm nhân, nô lệ, trong mắt Bạch Đà quân, tính mạng không bằng cỏ rác.

Chúng cho rằng sống là đày đọa, chết là giải thoát nên sẵn sàng giải thoát cho nô lệ, không mảy may thương xót, không lăn tăn, không hối hận… Giống như những con rối giết chóc, Bạch Đà quân quét đến đâu giết sạch đến đó như khi chúng tấn công Tập thành, Hồi thành…

Người Vạn Tư quốc khiến Đằng Nguyên mở mang tầm mắt.

Một dân tộc hoang dại, hiếu chiến không biết hai chữ “nhân nghĩa” viết như thế nào.

Hèn gì chúng có thể giữ được bờ cõi nguyên vẹn sau chiến loạn đại lục. Đằng Nguyên còn thắc mắc tại sao chúng không đưa quân tấn công, thôn tính các Châu khác mà an phận ngồi im trong nhà mình suốt ba mươi năm sau chiến loạn.

— QUẢNG CÁO —

Có thể cuộc chiến đó đã khiến toàn đại lục nguyên khí đại thương, Châu nào, nước nào cũng cạn kiệt nguồn lực đến nỗi không thể tiếp tục đánh nhau. Hiện tại Đà Liêu Châu đã khôi phục, cớ gì Vạn Tư quốc chịu kém cạnh?

Nếu vậy chiến tranh sẽ sớm nổ ra một lần nữa, có thể nhỏ hơn, khôn khéo hơn nhưng không thể tránh khỏi. Chuyện này không có lợi cho Sa Lục Châu vì phương nam vốn dĩ quân đội yếu hèn. Nếu Vạn Tư quốc tiếp tục đánh sang, không chỉ Tập thành, Hồi thành bị san thành bình địa mà còn các thành trấn khác xung quanh, những nơi tiếp giáp với Vạn Tư quốc cũng thành bãi tha ma. Thậm chí chúng có thể trực tiếp cướp đất Sa Lục Châu, biến những tòa thành đó thành của mình, đồng hoá dân tộc.

Hàng vạn bá tánh Sa Lục Châu sẽ bỏ mạng oan uổng, không riêng gì đám nô lệ chạy ra từ mỏ Dạ Cổ.

Đằng Nguyên không cam tâm, hắn muốn làm gì đó để ngăn chặn cuộc chiến, cứu lấy những bá tánh vô tội.

Hắn lang thang cả ngày, nhìn chỗ nọ, ngó chỗ kia, ngồi hàng canh giờ trên núi suy nghĩ nhưng cũng giống như còn ở trong sơn động bên cạnh mỏ Dạ Cổ, nằm từ ngày nọ sang ngày kia vắt tay lên trán vô ích, Đằng Nguyên bế tắc. Hắn chỉ là một kẻ có tà thể, có chút bản lĩnh nhưng chung quy vẫn là phàm nhân, sức có hạn.

Không phải hắn không muốn cứu mà không có khả năng để cứu, ít nhất cho đến giờ này, Đằng Nguyên chẳng có bản lĩnh đó.

Hắn bất lực trước sự đào tẩu ồ ạt của nô lệ khu Thượng ngay trước mắt mình, gào thét trong vô vọng thế nào cũng vô ích, không thể khiến họ quay lại.

Hắn bất lực trước sống chết của nô lệ trong mỏ, để họ tự gánh vác số phận chính mình, tự sinh tự diệt, không thể tổ chức một cuộc đào tẩu quy mô vì hắn biết sức mạnh của Bạch Đà quân. Lấy cứng đối cứng chỉ có chết thảm, chết còn nhanh hơn so với việc chia ra, trốn chui trốn lủi.

Hắn bất lực nhìn nô lệ bị Bạch Đà quân săn như chuột trong rừng…

Rất nhiều chuyện Đằng Nguyên không cam tâm nhưng bất lực.

Phàm thể của hắn còn không cứu nổi Mục Nhan và tiểu Hoa, đừng nói những chuyện đao to búa lớn.

Hắn không cam tâm thì sao? Trời chẳng chiều lòng người, hắn phải công nhận mình không có bản lĩnh cứu nhân độ thế. Tạo hoá của phàm nhân là do trời cao quyết định, Đằng Nguyên chỉ là một hạt bụi trong sa mạc, sao có thể nghịch thiên.

Nhưng hắn vẫn không cam tâm.

Hắn muốn báo thù, sống để báo thù, nhìn về ngày mai với đôi mắt rực lửa căm hận. Nếu không kiếp này của hắn phải sống tiếp thế nào trong khi Mục Nhan và tiểu Hoa đã chỉ còn là hai nắm xương trắng, tiểu Trúc chẳng rõ tung tích nơi nào.

Đằng Nguyên chặc lưỡi mặc kệ, đến đâu hay đến đó.